Phiên họp thứ 63 để thẩm định hồ sơ Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Ảnh: MPI) |
Làm rõ vị thế, vai trò của TP.HCM
TP.HCM là đô thị đặc biệt của cả nước, là cửa ngõ quan trọng kết nối với khu vực và thế giới; là trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ; là đầu tàu, động lực, có sức hút và sức lan tỏa lớn của vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Thành phố chỉ chiếm 0,6% diện tích cả nước, dân số 9,2 triệu người – chiếm khoảng 9% dân số cả nước, nhưng đóng góp gần 20% GDP và 25% thu ngân sách cả nước; GRDP của Thành phố chiếm khoảng 54% GRDP của vùng Đông Nam Bộ.
Phát biểu khai mạc tại Phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đánh giá, trong thời gian qua, TP.HCM đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như tiềm năng, thế mạnh, năng lực đột phá, sáng tạo của Thành phố chưa được khai thác hiệu quả. Vai trò đầu tàu, động lực dẫn dắt có chiều hướng chững lại trong những năm gần đây.
Mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế của Thành phố chậm đổi mới; tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP thấp hơn trung bình cả nước, có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Chất lượng tăng trưởng và năng suất lao động thấp (đóng góp của Năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 2011 – 2020 vào tăng trưởng của Thành phố thấp hơn trung bình cả nước). Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm dần (từ 25% năm 2015 xuống 22,06% năm 2022); cơ cấu nội ngành công nghiệp lạc hậu, dựa chủ yếu vào các ngành thâm hụt lao động như điện tử (28%), da giầy (25%). Dịch vụ chủ yếu dựa vào thương mại, vận tải (44%); các ngành dịch vụ cao cấp mang tính chiến lược như: tài chính, y tế, giáo dục, du lịch… chưa đóng vai trò chủ đạo.
Tổ chức không gian phát triển còn nhiều bất cập; hạ tầng chưa đồng bộ; quỹ đất phát triển công nghiệp ít, không gian phát triển các khu công nghiệp chưa phù hợp, dẫn tới việc thu hút đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp còn gặp khó khăn. Hệ thống giao thông kết nối nội vùng, liên vùng giữa TP.HCM với các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ, với vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các vùng kinh tế của cả nước còn hạn chế. Cần có cơ chế, chính sách và đầu tư hạ tầng phù hợp để duy trì lợi thế cửa ngõ quốc tế của TP.HCM khi sân bay Long Thành đi vào hoạt động.
Kết cấu hạ tầng đô thị bị quá tải so với sự gia tăng nhanh của dân số; hạ tầng khung đô thị, đặc biệt là hạ tầng ngầm chậm được phát triển, dẫn đến chất lượng sống của người dân đô thị chưa cao.Vấn đề về tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường và ngập lụt ngày càng gia tăng trong bối cảnh tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch đô thị còn nhiều hạn chế; cấu trúc không gian đô thị chưa phù hợp với một đô thị cực lớn và siêu thành phố trong tương lai, chưa khai thác hết các tiềm năng, lợi thế của một đô thị ven sông, hướng biển.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng phát biểu khai mạc tại Phiên họp thẩm định
Để giúp TP.HCM hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch có chất lượng cao nhất, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị các thành viên Hội đồng Thẩm định, các chuyên gia phản biện cho ý kiến về nội dung Quy hoạch, trong đó lưu ý một số nội dung về vị thế, vai trò của Thành phố đối với vùng, quốc gia; xác định các “điểm nghẽn” phát triển và tiềm năng, lợi thế, cơ hội của Thành phố trong kỳ quy hoạch. Nội dung Quy hoạch đã đủ mạnh, tương xứng với mục tiêu phát triển đầy tham vọng và những vấn đề, thách thức rất lớn mà TP.HCM phải đối mặt và vượt qua trong thời gian tới hay chưa; những vấn đề trọng tâm, các khâu đột phá trong thời gian tới; cần có những đột phá và giải pháp gì để quy hoạch đảm bảo tính khả thi.
Cần làm rõ việc bố trí không gian phát triển của Thành phố đã phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch vùng; việc khai thác được hết những tiềm năng, lợi thế, tạo động lực tăng trưởng mới nhằm khắc phục được những tồn tại, hạn chế của thời kỳ trước…
Đặc biệt, TP.HCM có 2 hồ sơ quy hoạch cùng trình là Quy hoạch Thành phố và Quy hoạch chung xây dựng Thành phố. Hai hồ sơ quy hoạch này được thực hiện theo Luật Quy hoạch và Luật Quy hoạch đô thị. Bởi vậy, cần có sự thống nhất về: quy mô dân số, định hướng phân bổ không gian, phân khu chức năng, hệ thống đô thị và nông thôn.
Riêng về phương án phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng lưu ý, việc phát triển, sử dụng hiệu quả không gian ngầm, hạ tầng giao thông để giải quyết các vấn đề về ùn tắc giao thông trong đô thị; phát triển hạ tầng số. Giải quyết các vấn đề về ngập úng, ô nhiễm môi trường; đặc biệt là ô nhiễm không khí, bụi mịn khi TP.HCM đang thuộc nhóm các thành phố ô nhiễm nhất trên thế giới. Vấn đề đảm bảo an ninh nguồn nước, làm thế nào để Thành phố đủ nước sạch phục vụ cho cư dân khi nhu cầu sử dụng nước sạch của cư dân ngày càng tăng.
Về bố trí không gian phát triển các khu công nghiệp, hiện trong Quy hoạch chỉ tiêu đất khu công nghiệp vượt 1.489,1 ha so với chỉ tiêu đất khu công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phân bổ. Do đó, đề nghị UBND TP.HCM rà soát phương án phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2025 theo đúng chỉ tiêu đất khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 09/3/2022 và Quyết định số 227/QĐ-TTg ngày 12/3/2024.
Về các vấn đề xã hội, Báo cáo Quy hoạch cần tập trung vào vấn đề phát triển bền vững, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và vấn đề an sinh xã hội, giải quyết điểm nghẽn về chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo an ninh chính trị trên địa bàn.
Trở thành đô thị toàn cầu, văn minh, hiện đại, nghĩa tình, năng động sáng tạo
Ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND TP.HCM khẳng định, công tác quy hoạch có ý nghĩa rất lớn trong việc định hình và xây dựng các kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung và trong từng lĩnh vực nói riêng. Trong thời gian qua, lãnh đạo Thành phố đã tập trung đôn đốc triển khai công tác lập quy hoạch.
Ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND TP.HCM
Dự thảo Báo cáo Quy hoạch tập trung thể hiện rõ các định hướng phát triển của Thành phố trên 5 nội dung: Kinh tế xanh; Đô thị sáng tạo; Hạ tầng thông minh; Xã hội văn minh; Môi trường bền vững.
Theo Dự thảo Quy hoạch, mục tiêu tổng quát trong phát triển là TP.HCM là đô thị toàn cầu, văn minh, hiện đại, nghĩa tình, năng động sáng tạo; là thành phố có nguồn nhân lực chất lượng cao, dịch vụ – công nghiệp hiện đại, đầu tàu về kinh tế xanh và số, xã hội số, trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại – dịch vụ, văn hoá, giáo dục, khoa học – công nghệ của cả nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, có vị thế nổi trội trong khu vực Đông Nam Á, tốc độ tăng trưởng kinh tế và GRDP bình quân đầu người thuộc nhóm đứng đầu cả nước; là thành phố có chất lượng cuộc sống cao, giàu bản sắc, môi trường bền vững, thích ứng với biển đổi khí hậu.
Các trụ cột phát triển kinh tế chủ yếu của Thành phố dựa trên các ngành thương mại – dịch vụ chất lượng cao, công nghiệp công nghệ cao, xây dựng hiện đại, kinh tế biển bền vững, gắn với các mô hình kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế chia sẻ và kinh tế tuần hoàn. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 9,0%/năm trong giai đoạn 2021 – 2030. Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 14.700 – 15.400 USD. Tỷ trọng bình quân trong GRDP của khu vực dịch vụ trên 60%, khu vực công nghiệp – xây dựng khoảng 27%, khu vực nông – lâm – thủy sản dưới 0,5%. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 60%.
Dự thảo Quy hoạch cũng đưa ra các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển TP.HCM thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 gồm: Cải cách thể chế và tạo ra các điều kiện phát triển đột phá. Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế; và phát triển kinh tế biển, kinh tế đô thị và kinh tế xanh gắn với kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế chia sẻ; tiếp tục đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và dịch vụ hóa.
Đổi mới mô hình tổ chức không gian, hướng tới đô thị toàn cầu hấp dẫn và bền vững; đa trung tâm, xanh, thông minh, sáng tạo, giàu bản sắc, bám sông, hướng biển, thích ứng với biến đổi khí hậu, hài hoà giữa đô thị và nông thôn. Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng; nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo mô hình TOD. Tăng cường kết nối vùng, trong đó, TP.HCM giữ vai trò hạt nhân, dẫn dắt, động lực tăng trưởng của vùng Đông Nam bộ và cả nước…
Phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ cao. Phát triển đội ngũ doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp nòng cốt, quy mô lớn, mang tính chiến lược. Tập trung triển khai các siêu dự án có vai trò tạo ra sự tăng trưởng và phát triển đột phá cho Thành phố.
Bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước với sự tham gia của cả hệ thống chính trị.